thứ sáu 05/12/2025

Gợi mở chính sách tín chỉ các-bon từ thực tiễn nông nghiệp

Chuyển động chính sách về giảm phát thải các-bon đang mở ra hướng tiếp cận mới, gắn kết mục tiêu quốc gia với thực tiễn sản xuất nông nghiệp.

Trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội XIV của Đảng, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu được xem là một trong những trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước giai đoạn mới.

Tại Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Phú Lương, các biện pháp canh tác giảm phát thải đã được áp dụng từ năm 2017. Ảnh: Phương Linh.
Tại Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Phú Lương, các biện pháp canh tác giảm phát thải đã được áp dụng từ năm 2017. Ảnh: Phương Linh.

Dự thảo xác định rõ các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển chủ yếu 5 năm 2026 - 2030, trong đó đáng chú ý là mục tiêu giảm 8-9% lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường. Đây là bước đi quan trọng nhằm thực thi cam kết của Việt Nam đưa phát thải ròng về mức 0 vào năm 2050.

Cùng với đó, nội dung tại phần IX - Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực giám sát và bảo vệ môi trường; thúc đẩy chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn; đồng thời bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và giảm thiểu tác động môi trường.

Những định hướng này tạo nền tảng để các địa phương, ngành hàng, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư tham gia sâu hơn vào lộ trình giảm phát thải, đặc biệt trong các lĩnh vực có mức phát thải cao như nông nghiệp, công nghiệp và giao thông.

Việc xác lập các mục tiêu rõ ràng trong giai đoạn 2026-2030 cho thấy quyết tâm của Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời chuẩn bị điều kiện để tham gia hiệu quả thị trường các-bon - một xu thế tất yếu trên toàn cầu.

Liên quan đến Dự thảo trên, ông Nguyễn Trọng Thành, Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Phú Lương (xã Bắc Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên) cho rằng việc nhấn mạnh mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính trong Dự thảo là dấu hiệu tích cực, phản ánh sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp xanh và kinh tế các-bon thấp.

Theo ông Thành, nông nghiệp hiện phát thải khoảng 116 triệu tấn CO₂, chiếm hơn 25% tổng phát thải quốc gia, trong đó lúa gạo và chăn nuôi là hai nguồn phát thải lớn nhất. “Để thực hiện thành công cam kết đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050, mô hình sản xuất lúa gạo các-bon thấp không chỉ là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc”, ông nhấn mạnh.

Tại Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Phú Lương, các biện pháp canh tác giảm phát thải đã được áp dụng từ năm 2017, như điều tiết nước hợp lý, giảm lượng phân bón hóa học, sử dụng giống chất lượng cao, áp dụng cơ giới hóa và tiến tới số hóa quy trình canh tác. Hợp tác xã đang hướng tới mở rộng vùng sản xuất để đủ điều kiện tham gia bán tín chỉ các-bon - một hướng đi giúp tăng giá trị sản xuất đồng thời tạo động lực để nông dân gắn bó lâu dài với nông nghiệp xanh.

Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Phú Lương đang hướng tới mở rộng vùng sản xuất để đủ điều kiện tham gia bán tín chỉ các-bon - hướng đi giúp tăng giá trị sản xuất đồng thời tạo động lực để nông dân gắn bó lâu dài với nông nghiệp xanh. Ảnh: Mai Đan.
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Phú Lương đang hướng tới mở rộng vùng sản xuất để đủ điều kiện tham gia bán tín chỉ các-bon - hướng đi giúp tăng giá trị sản xuất đồng thời tạo động lực để nông dân gắn bó lâu dài với nông nghiệp xanh. Ảnh: Mai Đan.

Từ thực tiễn đó, Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Phú Lương kiến nghị, cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền, mở các khóa đào tạo, tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm về tín chỉ các-bon cho doanh nghiệp và nông dân.

Đồng thời, xây dựng hệ thống theo dõi - kiểm đếm - xác nhận phát thải (MRV) minh bạch, độc lập ở cấp quốc gia, đảm bảo thống nhất giữa các bộ, ngành và các doanh nghiệp phát thải lớn.

Và quan trọng nhất, tại phần IX của Dự thảo, nên bổ sung nội dung: “Xây dựng cơ chế chính sách thực hiện tín chỉ các-bon cho người dân vùng trọng điểm canh tác lúa, vùng có rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn”.

Theo ông Thành, khi tín chỉ các-bon được quy đổi thành giá trị kinh tế và người dân trực tiếp hưởng lợi, họ sẽ có thêm động lực để áp dụng các biện pháp canh tác thân thiện môi trường, bảo vệ rừng và tài nguyên thiên nhiên. Đây cũng là cách để huy động sự tham gia rộng rãi của cộng đồng, yếu tố quyết định trong lộ trình giảm phát thải của quốc gia.

Mai Đan - Phương Linh

Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/

Bài viết liên quan
3 “lợi thế vàng” giúp nông dân Tây Ninh làm giàu với “cây tỷ đô”, đó là 3 lợi thế gì?

Với "3 lợi thế vàng": Khí hậu – thổ nhưỡng phù hợp, nguồn nước dồi dào và thị trường hấp dẫn, Tây Ninh đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành vùng trồng sầu riêng mới của khu vực phía Nam, nông dân Tây Ninh làm giàu nhờ trồng sầu riêng. Khi quy hoạch đồng bộ và liên kết sản xuất được đẩy mạnh, cây sầu riêng hứa hẹn sẽ mang lại bước chuyển mạnh mẽ cho nông nghiệp địa phương.

Vì sao Brazil dần chuyển sang trồng cà phê Robusta?
Đăng bởi Bình Điền | 10/12/2025

Brazil là quốc gia sản xuất cà phê lớn nhất thế giới và nắm giữ ngôi vương về sản xuất cà phê Arabica mấy chục năm qua. Tuy nhiên, khi biến đổi khí hậu ảnh hưởng ngày một rõ rệt khiến việc trồng arabica ngày càng khó khăn, thì một bộ phận nông dân đang chuyển sang robusta, loại hạt đậm, đắng hơn nhưng chịu nhiệt tốt và kháng bệnh mạnh hơn.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia: Doanh nghiệp hãy xem lực lượng Khuyến nông như lực lượng của mình

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh nhấn mạnh, doanh nghiệp cần xem lực lượng khuyến nông như một phần lực lượng của chính mình. Ông cho rằng chỉ khi phát huy tối đa năng lực của đội ngũ khuyến nông, đặc biệt là khuyến nông cấp xã, việc chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ nông dân mới đạt hiệu quả thực chất.